Thứ Tư, 11 tháng 3, 2015

Cách phòng bệnh đạo ôn hại lúa.


Từ khóa: Cách phòng bệnh cây lúa.

http://thaibinhseed.com.vn/tu-van/ho-tro-ky-thuat/cach-phong-tri-benh-dao-on-hai-lua-10266.html

Cách phòng trị bệnh đạo ôn hại lúa

Bệnh đạo ôn là bệnh quan trọng gây hại ở hầu hết các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa từ giai đoạn mạ – đẻ nhánh – trổ – chín và trên các bộ phận của cây như lá, cổ lá, đốt thân, cổ bông, hạt . Tuỳ theo bộ phân bị hại mà người ta gọi là bệnh đạo ôn lá (cháy lá), đạo ôn cổ lá hay đạo ôn cổ bông… Bệnh đạo ôn có thể xảy ra quanh năm và thường gây hại nặng vào vụ Đông Xuân, những diện tích bị bệnh nặng có thể làm thất thu năng suất.
1. Triệu chứng:                                                  

- Trên lá: Bệnh gây hại chủ yếu giai đoạn mạ – đẻ nhánh. Lúc đầu vết bệnh chỉ là những chấm nhỏ, màu xanh xám, sau lớn lên có dạng hình thoi (mắt én) đặc trưng, viền nâu, tâm màu xám trắng. Trên các giống nhiễm đốm bệnh rất to, ngược lại giống kháng thì vết bệnh chỉ cở bằng đầu kim. Bệnh nặng, các vết bệnh liên kết lại làm lá bị cháy khô.
- Trên cổ lá, thân và cổ bông: triệu chứng ban đầu cũng có màu xám xanh sau chuyển sang nâu, do nấm tấn công vào mạch dẫn gây cản trở việc vận chuyển các chất dinh dưởng nuôi lá, thân và hạt làm cho lá, thân dễ gãy, hạt bị lép , lửng.
- Trên hạt : bệnh xảy ra vào giai đoạn trổ, vết bệnh trên hạt cũng có dạng mắt én, viền nâu, tâm xám trắng. Nếu bệnh tấn công sớm sẽ làm hạt bị lép, lửng.
2. Tác nhân gây hại:
Do nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea gây ra. Bào tử nấm rất nhỏ, có thể bay cao và bay xa nên bệnh rất dễ lây lan nhanh trên diện rộng. Nhiệm vụ của bào tử này là hút các chất dinh dưỡng có trong cây lúa và ngoài ra còn tiết ra độc tố Pyricularin gây độc cho cây . Bào tử nấm Pyricularia oryzae hay P. grisea phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ mát từ 24 – 28 độ C, ẩm độ cao trên 80%, Trường hợp trong điều kiện khí hậu mát mẻ, sáng nắng, chiều mưa xen kẻ, trời có nhiều sương mù rất thích hơp cho bệnh xảy ra. Nấm bệnh thường lưu tồn trên ruộng, trong các gốc lúa và trong các loại cỏ dại mọc ven ruộng như cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng, cỏ chỉ, lúa chét…
3. Các yếu tố làm bệnh tồn tại và phát triển:
- Thời tiết : ẩm độ không khí cao, mưa nắng xen kẻ, sáng sớm và chiều tối có sương mù rất thuận lợi cho bệnh phát sinh gây hại.
- Nước : Tình trạng khô hạn gây thiếu nước trên ruộng khiến cây sinh trưởng kém, mất khả năng chống chọi nên bệnh xảy ra nặng.
- Giống : sử dụng giống dễ nhiễm bệnh đạo ôn
- Mật độ gieo sạ : gieo sạ càng dầy, tán lúa càng rậm, ẩm độ trên ruộng càng cao, bệnh càng dễ xảy ra.
- Bón phân : Bón không cân đối giữa N-P-K, bón thừa đạm, bón đạm muộn, phun phân bón lá có đạm nhất là giai đoạn đòng trổ … tạo điều kiện cho bệnh phát triển nặng hơn.
- Nguồn bệnh : nấm bệnh lưu tồn trong rơm rạ, cỏ dại, hạt giống… là nguồn bệnh lây lan qua vụ sau.
4. Các giai đoạn cần lưu ý bệnh đạo ôn :
- Giai đoạn mạ: thường phát sinh trên các giống nhiễm, làm cây suy yếu ảnh hưởng năng suất về sau.
- Giai đoạn cuối đẻ nhánh đến làm đòng.
- Giai đoạn trước và sau trổ.

Để hạn chế bệnh phát sinh phát triển gây hại , bà con thường xuyên thăm dồng, nhất là vào các giai đoạn cần lưu ý (quan sát kỹ từng bụi lúa, đặc biệt những nơi lúa tốt, rậm rạp nằm giữa ruộng hoặc gần bờ bao, cống bộng dẫn nước) để phòng trị kịp thời.
5. Phòng trị :
Áp dụng các biện pháp tổng hợp để phòng trị bệnh như :
- Sử dụng giống kháng bệnh hay kháng vừa. Có thể kết hợp để chọn giống có tính kháng bệnh đạo ôn và tính kháng rầy phù hợp với điều kiện địa phương, cho năng suất cao và phẩm chất tốt.
- Chọn hạt giống sạch bệnh, sạch cỏ và xử lý giống trước khi gieo sạ.
- Gieo sạ với mật số vừa phải , không gieo sạ dày . Lượng giống gieo sạ trung bình khoảng 80 – 120 kg/ha (tuỳ địa phương)
- Bón phân cân đối N-P-K. Lượng đạm bón vừa đủ từ 80 – 100 kg /ha (lưu ý nên bón đạm theo nhu cầu chứ không bón quá nhiều hay bón muộn,.,có thể dùng bảng so màu lá lúa để bón) Khi bệnh xảy ra ngưng bón đạm hay phun phân bón lá có đạm.
- Sau thu hoạch nên cày vùi rơm rạ để trả lại chất hữu cơ cho đất.
- Vệ sinh đồng ruộng, diệt lúa rày, lúa chét, làm sạch cỏ bờ… hạn chế mầm bệnh lưu tồn và lây lan sau này.
- Giữ mức nước trên ruộng phù hợp với từng nhu cầu sinh trường của lúa, tránh để ruộng khô khi bệnh xảy ra.
- Sử dụng thuốc hoá học đặc trị bệnh đạo ôn : Trizole 75WDG, 20WP, Lúa vàng 20WP, KiSaigon 10H, 50ND, Py Saigon 50WP.
                                                Theo nông nghiệp Thái Bình

Nông dân làm giàu


Từ khóa: Nông dân làm giàu.

http://www.thanhnien.com.vn/phong-su/nhung-ti-phu-nong-dan-ky-6-mo-hinh-lam-giau-don-gian-75813.html

Những tỉ phú nông dân

Chí thú làm ăn và không lùi bước trước thất bại, nhiều nông dân chân chất đã trở thành những chủ trang trại thu nhập bạc tỉ mỗi năm, là ân nhân của nhiều “công nhân nông nghiệp”.>>

Chí thú làm ăn và không lùi bước trước thất bại, nhiều nông dân chân chất đã trở thành những chủ trang trại thu nhập bạc tỉ mỗi năm, là ân nhân của nhiều “công nhân nông nghiệp”.
Không dừng bước
Ông Võ Quan Huy (Út Huy) ấp Thuận Hòa, xã Hiệp Hòa, H.Đức Hòa, Long An được coi là nông dân tích tụ được nhiều đất nhất ĐBSCL khi đang canh tác trên 580 ha đất nông nghiệp.

Lãi lớn khi đưa cây ớt vào Đồng Tháp Mười “chiến đấu” với đất phèn nhưng Út Huy cũng sớm nhận ra rằng bài toán đó không bền vững nên năm 2007, ông quyết định chuyển sang chuyên canh cây ăn trái. Toàn bộ diện tích được tập trung trồng bưởi da xanh, xoài, mít và cây thanh long. Hiện vườn cây của Út Huy đã bắt đầu có thu hoạch nhưng vẫn chưa sinh lãi vì còn trong giai đoạn vừa làm vừa cải tiến.
Hiểu ra là không thể nóng vội, Út Huy lang thang khắp ĐBSCL để “tầm sư học đạo”. Sau hơn 1 năm trang bị thêm kiến thức nuôi tôm theo công nghệ sinh học, Út Huy quay lại Sóc Trăng làm lại với con tôm và gặt hái thành công trên diện tích 100 ha tại đây. Ông tìm về Bạc Liêu và gom tiếp 60 ha để mở rộng diện tích. Tiếp đó, ông lại về Long An mua thêm 20 ha thả nuôi cá đồng...
Hiện nay, trang trại của Út Huy có khoảng 300 nhân công làm việc thường xuyên, thu nhập ổn định. Nhiều gia đình sống lâu năm với Út Huy, cả vợ chồng con cái đều là “công nhân nông nghiệp” của ông.


Ông Nam bên đàn gà nuôi gia công của mình - Ảnh: Gia Khương

Triển vọng từ giống ngô SB099 trên vùng cao Yên Bái

Tư khoa: nong nghiep
http://www.mard.gov.vn/Pages/news_detail.aspx?NewsId=36773&Page=1
 Với mục đích sản xuất giống ngô hàng hóa chất lượng cao, Trung tâm Giống cây trồng Yên Bái đã sản xuất thành công giống ngô lai đơn SB 099, đồng thời chuyển giao kỹ thuật thâm canh cho người dân ở các vùng ngô trọng điểm của tỉnh .
Thành công của dự án này đã giúp các địa phương chủ động nguồn giống , thay thế các giống nhập ngoại, giá thành     giảm, năng suất cao hơn các giống ngô thông thường.

Quảng Nam hướng đến trồng cây màu tiết kiệm nước.

http://www.vietlinh.vn/library/news/2014/agriculture_plantation_news_show_2014.asp?ID=845
 Từ khóa: “ nông nghiệp quảng nam”
Quảng Nam: Hướng tới cây màu trong chiến lược chuyển đổi tiết kiệm nước
Nguồn tin: Khuyến Nông VN, 22/05/2014
Ngày cập nhật: 24/5/2014
Description: Share Facebook

Sau hơn một năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nền nông nghiệp Quảng Nam đã có diện mạo tươi sáng hơn, đưa giá trị sản xuất cao hơn nhiều so với sản xuất lúa, trong đó cây ngô, cây lạc khẳng định tính ổn định và bền vững.
Tỉnh Quảng Nam chỉ có hơn 113.000 ha sản xuất nông nghiệp, mặc dầu cơ cấu cây trồng của tỉnh khá phong phú nhưng lúa vẫn là cây trồng chính với hơn 87.000 ha gieo trồng, chiếm tỉ lệ 54,7% diện tích gieo trồng cây hằng năm. Tuy nhiên phần lớn diện tích đất lúa có độ phì thấp nên hiệu quả canh tác không cao, mặt khác các tác động của biến đổi khí hậu như thực trạng thiếu nước do khô hạn, rét lạnh ở vụ đông xuân và nắng nóng ở vụ hè thu đã tăng rủi ro cho sản xuất lúa nước.
 
 
 
 

Cây ngô, cây lạc khẳng định tính ổn định và bền vững trên đất Quảng Nam.

Làm giàu từ kết hợp trồng rừng và chăn nuôi.


Từ khóa: lam giau tu nong nghiep

http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/khoi-nghiep/thu-nhap-cao-nho-ket-hop-trong-rung-nuoi-bo-3110954.html

Thu nhập cao nhờ kết hợp trồng rừng, nuôi bò

Từ cuộc sống cực khổ, phải lo bữa ăn từng ngày, nhưng nhờ cách làm ăn mới, anh Hoàng Văn Tánh ở thôn Trung Long (Quảng Trị) đã thoát nghèo và có 'của ăn của để.

Là con thứ 3 trong gia đình nghèo có 6 anh em, học hết lớp 7 anh Tánh đi làm thợ xây kiếm tiền phụ giúp cha mẹ. Năm 1993 lập gia đình, theo tiếng gọi của chính quyền, anh rời quê hương xã Triệu Trung lên vùng kinh tế mới ở thôn Trung Long (Quảng Trị) lập nghiệp.

Mang quyết tâm đổi đời lên quê hương mới, vợ chồng trẻ dựng tạm căn lều nhỏ, ngày đêm chịu khó khai hoang đất đồi trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. “Ngày đó vùng này hoang vu lắm, có đêm nằm ngủ trong lều, thú dữ cứ gầm rú bên ngoài sợ đến kinh hoàng. Bữa ăn thì chỉ toàn rau rừng, lâu lâu đi chặt bó củi về miền xuôi bán mới mua được miếng thịt cải thiện”, anh Tánh nhớ lại tháng ngày cơ cực.

Chính vì những khó khăn buổi ban đầu như thế mà trong hàng trăm người lên vùng Trung Long lập nghiệp, chỉ còn trụ được vài người, trong đó có gia đình anh Tánh. Với lòng quyết tâm làm giàu, anh Tánh đã vượt qua mọi khó khăn để khai hoang và trồng 20ha tràm, trung bình 5-6 năm thu hoạch một lần, bình quân cho anh trên 150 triệu đồng mỗi năm

Mỗi năm anh Thắng thu được khoảng 170 triệu đồng từ đàn bò. .

Cùng với khai hoang trồng rừng, năm 1996, anh Tánh mua thêm một cặp bò nuôi gây đàn và bán dần. Từ năm 2008 đến nay, đàn bò của gia đình anh Tánh duy trì 30 con, có 15 con bò cái sinh sản giúp anh tự cung cấp giống. Bò giống nuôi một năm có thể xuất bán với giá 12-18 triệu đồng một con. Mỗi năm anh bán 15 con bò giống và bò thịt, lợi nhuận bình quân được khoảng 170 triệu đồng.

Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh Tánh còn giúp đỡ người dân địa phương về nguồn vốn, kỹ thuật trồng rừng, nuôi bò để cùng phát triển làm giàu.

Theo Dân Việt

 

Làm giàu từ nuôi gà Đông Tảo

Tư khoa: làm giau chăn nuoi
http://gadongtaohungyen.info/the-gioi-ga/lam-giau-tu-ga-dong-tao-chi-voi-2-trieu-dong.html
Làm giàu từ gà đông tảo chỉ với 2 triệu đồng
Bạn có bao giờ nghĩ mình sẽ làm giàu từ chăn nuôi gà chỉ với 2 triệu đồng chưa? Nếu chỉ nghe thôi chỉ chắc hẳn khó tin, nhưng nếu nói làm giàu từ gà đông tảo thì có lẽ nhiều người sẽ tin vì gần đây giá trị của gà đông tảo được biết đến như một giống gà quý và đắt đỏ. Chỉ cần sở hữu một vài con là có cả một gia tài vài chục triệu đồng.
Hôm nay, mời các bạn về thôn Tam Đa, xã Tam Đa, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên gặp nhiều khó khăn và thuộc diện nghèo ở địa phương gặp anh Hoàng Trọng Hậu chủ trang trại gà có thu nhập hàng năm lên tới hàng trăm triệu đồng.
Tiền năng từ nuôi gà đông tảo

Mô hình làm giàu từ Bò vỗ béo



 

 http://www.vuonsinhthaitrungviet.com/HOME/detail.asp?iData=1280
từ khóa: lam giàu từ chăn nuôi.











Description: http://www.vuonsinhthaitrungviet.com/images/line_tit.jpg
 

Trong phát triển kinh tế gia đình thì nuôi bò vỗ béo là kinh tế phụ của nhiều nông hộ ở Bến Tre. Bởi bò là vật nuôi ít bị rủi ro, dễ nuôi, dễ chăm sóc, chi phí thức ăn thấp, chủ yếu lấy công làm lời nên được nông dân chọn nuôi. Những năm gần đây, với việc giá bò ổn định ở mức cao, nhiều nông dân ở xã Phú Lễ huyện Ba Tri đã đầu tư nuôi bò vỗ béo; đặc biệt có những hộ đầu tư nuôi qui mô lớn, đạt hiệu quả kinh tế cao.
 

Triển vọng từ giống lúa thuần DQ11


Từ khóa: “nông nghiep”

http://www.mard.gov.vn/Pages/news_detail.aspx?NewsId=36981&Page=1#


(Mard-4/6/2014): Giống lúa thuần DQ11 được Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang tiến hành chọn tạo giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013. Kết thúc quá trình khảo nghiệm, cuối năm 2013, Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quyết định công nhận đặc cách DQ11 là giống cây trồng nông nghiệp mới và cho phép sản xuất đại trà ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực Bắc Trung Bộ.

Vụ Xuân 2014, Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã triển khai xây dựng mô hình trình diễn giống lúa thuần DQ11 ở hầu hết các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ với diện tích gần 2.500 hecta. Kết quả thu được phù hợp với các chỉ số trong hệ thống khảo nghiệm quốc gia. Từ khi đưa DQ11 vào trồng tại một số địa phương như: Ninh Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thanh Hóa và Thừa Thiên Huế cho thấy, giống lúa này chống chịu sâu bệnh tốt, đẻ nhánh khỏe, thời gian sinh trưởng ngắn, tỷ lệ phân bón chỉ bằng 2/3 giống lúa khác; trong khi năng suất lại cao hơn giống khác từ 30 - 40 kg/sào.
 * Giống lúa nhiều đặc tính ưu việt
Cách đây hơn 5 năm, nhóm tác giả Phùng Văn Quang và Phạm Thị Dung thuộc Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang bắt đầu việc tạo bộ giống lúa thuần với yêu cầu phải đạt năng suất cao, phù hợp với đồng đất Ninh Bình, có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng ngắn, đáp ứng được công thức luân canh 2 lúa, 1 màu tại địa phương. Năm 2009, công ty bắt đầu tiến hành bước nhân và tuyển chọn giống từ nguồn vật liệu nhập từ Trung Quốc và đến ngày 22/9/2012, giống lúa thuần mới với tên gọi DQ11 chính thức "trình làng".
DQ11 thuộc nhóm giống ngắn ngày, thời gian sinh trưởng từ 120 đến 125 ngày đối với vụ xuân và từ 100 đến 105 ngày đối với vụ mùa. Lúa trỗ tập trung, thoát cổ bông, đạt từ 120 - 180 hạt/bông, hình thức thon nhỏ, màu sắc vàng đậm, năng suất cao hơn giống Bắc Thơm số 7 là 23,13 tạ/ha. Giống DQ11 có thể trồng trên ruộng chân cao hoặc thấp, giúp nhà nông chủ động trong việc tưới tiêu.
Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang cũng đã phối hợp với Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trạm bảo vệ thực vật huyện Yên Khánh đánh giá kết quả thí điểm mô hình kỹ thuật thâm canh lúa theo phương thức sử dụng "hiệu ứng hàng biên" - tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp. Theo phương thức này, lúa được cấy hàng rộng 30cm và hàng hẹp 14 cm, cây cách cây 12 cm, mật độ trung bình 32 khóm/m2. Kết quả cho thấy kỹ thuật sử dụng hiệu ứng hàng biên có ảnh hưởng rõ rệt tới sự sinh trưởng phát triển của cây lúa DQ11. Khả năng phục hồi và phát triển của cây lúa sau khi cấy so với ruộng đối chứng, cấy theo tập quán cũ nhanh hơn.
Tại ruộng cấy theo phương thức hiệu ứng hàng biên, cây lúa tận dụng được tối đa ánh sáng mặt trời, tăng khả năng quang hợp, tổng hợp được nhiều chất hữu cơ tạo ra sinh khối nên số bông/khóm, số hạt/bông, chiều cao, chiều dài bông, chiều dài lá đòng đều cao hơn so với ruộng đối chứng, năng suất thực thu cao hơn so với ruộng đối chứng trên 30 kg/sào. Đặc biệt, ruộng cấy theo phương thức hiệu ứng hàng biên, sự phát sinh và gây hại của các loại dịch hại giảm thiểu một cách rõ rệt, nhất là bệnh khô vằn và rầy nâu, chi phí thuốc bảo vệ thực vật thấp hơn so với ruộng đối chứng, vì vậy lãi sau đầu tư cao hơn so với đối chứng từ 15-17 triệu đồng/ha.
Ông Phùng Văn Quang, Giám đốc Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang cho biết: Kết quả tổng hợp quá trình khảo nghiệm, mô hình trình diễn cho thấy, DQ11 là giống lúa thuần hội tụ nhiều đặc điểm nông học tốt, chất lượng gạo ngon hơn hẳn các giống lúa Khang dân 18, Q5 và gần tương đương với Bắc thơm số 7, HT1 và T10, ít bị các bệnh phổ biến như khô vằn, bạc lá, rầy nâu gây hại. Đặc biệt, giống có tính thích ứng rộng. Tại các tỉnh phía nam đồng bằng sông Hồng, trong điều kiện vụ mùa gặp mưa bão, tỷ lệ nhiễm bệnh bạc lá ở một số giống lúa khác ngày càng trở nên nghiêm trọng thì DQ11 vẫn giữ được tính ổn định, lá đòng đứng, màu xanh, bản lá rộng vừa phải, nông dân tốn ít chi phí cho thuốc bảo vệ thực vật.
Việc đưa giống lúa DQ11 vào cơ cấu vụ mùa hàng năm có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí hợp lý trà lúa ngắn ngày, góp phần tạo khung thời vụ tốt nhất để phát triển nhóm cây trồng vụ đông chủ lực ở đồng bằng Bắc Bộ như đậu tương, ngô, khoai tây, lạc, rau, hoa quả khác, giúp người dân tăng giá trị sử dụng trên 1 hecta diện tích đất nông nghiệp.
* Phản hồi tích cực từ cơ sở
Tại hội nghị đầu bờ đánh giá bộ giống lúa có năng suất và chất lượng cao trên địa bàn diễn ra ngày 3/6 tại huyện Yên Khánh, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình, Bùi Mai Hoa nhận định, việc đưa giống DQ11 và tương lai là DQ12, Hồng Quang 15 của Công ty TNHH Vật tư nông nghiệp Hồng Quang vào sản xuất đại trà có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích gieo trồng, giúp kinh tế các địa phương phát triển bền vững. Cùng với đó, bà con nông dân được tiếp xúc với các giống lúa thuần mới có năng suất, chất lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh để áp dụng vào sản xuất, góp phần thay đổi cơ cấu mùa vụ, tiết kiệm chi phí đầu tư.
Theo Phó Bí thư Huyện ủy Yên Khánh, Lê Trung Thành, bên cạnh việc hỗ trợ về cơ sở hạ tầng như trạm bơm, kênh, cống điều tiết, giống gốc, vật tư nông nghiệp với định mức 2 triệu đồng/ha/vụ, địa phương còn hỗ trợ kinh phí tập huấn kỹ thuật, chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch hàng vụ, hàng năm để hướng tới mục tiêu hình thành mô hình sản xuất giống lúa thuần chất lượng cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Bước tiếp theo, Yên Khánh đi vào hoạt động ổn định vùng chuyên canh sản xuất, chủ động cung cấp nguồn lúa giống thuần chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn và các tỉnh, thành lân cận với giá cả phù hợp, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Vụ Xuân 2014, hợp tác xã Hợp Tiến (xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) đưa DQ11 vào trồng trên 60% diện tích đất nông nghiệp tại địa phương. Đánh giá về hiệu quả của giống lúa này, ông Hoàng Anh Tuấn, Chủ nhiệm hợp tác xã Hợp Tiến khẳng định, DQ11 thích ứng rộng trên nhiều vùng sinh thái khác nhau và điều quan trọng nhất là cho năng suất ấn tượng từ 2,3 - 2,4 tạ/sào, vượt trội hơn nhiều so với hai giống lúa đối chứng là LT2 và Bắc thơm số 7 đều chỉ đạt 1,8 tạ/sào nên bà con nông dân rất phấn khởi. Hạt gạo thon dài, không bạc bụng, khi đem nấu cơm giữ được độ dẻo và có vị đậm, bước đầu được thị trường chấp nhận.
 Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện mô hình liên kết "4 nhà" ở cơ sở đã nảy sinh một số bất cập. Mặc dù trước vụ sản xuất, một số doanh nghiệp đã phải đầu tư vốn, vật tư nông nghiệp cho bà con nông dân, tuy nhiên sau khi thu hoạch, có lúc giá cả thị trường lại "nhỉnh" hơn so với giá thu mua của doanh nghiệp, người nông dân vì lợi trước mắt đã không có ý thức liên kết với doanh nghiệp nên chỉ cung cấp một phần sản phẩm cho các doanh nghiệp thu mua, phần còn lại bán ra thị trường với giá cao để hưởng tiền chênh lệch, trong khi vẫn đang nợ vốn của doanh nghiệp. Chính vì thế, một số doanh nghiệp không mặn mà khi xây dựng vùng nguyên liệu trên địa bàn, người nông dân khó mở rộng quy mô sản xuất.
Ông Phạm Xuân Khoát, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh cho biết, để phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, có năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong thời gian tới nhà nước cần bổ sung hành lang pháp lý ràng buộc giữa người nông dân và doanh nghiệp, đồng thời tăng cường hướng dẫn, vận động nông dân thực hiên nghiêm túc hợp đồng đã ký kết kết hợp với việc giám sát, xử lý hành chính nhằm hạn chế thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp và nguồn ngân sách đã đầu tư. Việc triển khai chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng cần có sự tham gia của cả "4 nhà" trong sản xuất nông nghiệp, khẳng định vai trò của nhà nước trong việc hoạch định chính sách, chỉ đạo, hỗ trợ và bảo hộ quyền lợi cho các bên. Nhà khoa học chuyển giao những tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong nông nghiệp để nhà nông áp dụng vào thực tế sản xuất, từ đó tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao để cung cấp cho nhà doanh nghiệp đưa ra thị trường tiêu thụ. Làm được điều này vừa tăng thu nhập cho hộ gia đình, vừa góp phần thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại địa phương./.



Vũ Anh Minh

 

Giống cây ổi- Ổi 4 mùa(ổi găng)


http://giongcaytrong.net/sanpham/59/1/1/3/Giong-cay-trong/Giong-cay-an-qua/Giong-cay-oi---Oi-4-mua-(-oi-gang-).html

Từ khóa:  giống cây trồng

Description: http://www.vuonsinhthaitrungviet.com/Pictures/Bo%20nuoi.jpg

Giống cây ổi - Ổi 4 mùa ( ổi găng )
Ổi thích khí hậu ẩm, nếu lượng mưa hàng năm 1.500 – 4.000 mm phân bố tương đối đều thì không phải tưới. Bộ rễ của ổi thích nghi tốt với sự thay đổi đột ngột độ ẩm trong đất.

Chi tiết tham khảo: giongcaytrong.net/news/

Cách chăm sóc: 

Nếu trồng trong vườn, chăm sóc chu đáo, trồng vào thời gian nào cũng sống. Tuy vậy miền Bắc trồng vào tháng 2, 3 ; miền Nam trồng vào tháng 4, 5 đầu vụ mưa đảm bảo tỷ lệ sống cao nhất.

kỹ thuật chăm sóc cây mít


http://giongcaytrong.net/sanpham/113/81/81/70/Cay-xanh-do-thi/Cay-an-qua/Cay-mit---Mit-sieu-qua.html

Từ khóa: giống cây trồng

KỸ THUẬT CHĂM SÓC CÂY MÍT:


 Để cây chóng ra hoa trái, năng suất cao, lâu bền và phẩm chất ngon, đáp ứng được nhu cầu thị trường. Khâu chăm sóc có phần quan trọng đặc biệt vì không chỉ áp dụng kỹ thuật đơn thuần mà còn phải vận dụng kinh nghiệm và sự nhạy bén trong việc dự báo thị trường. Kỹ thuật chăm sóc Mít  chia ra làm hai thời kỳ. Thời kỳ xây dựng cơ bản khoảng 3 năm, đó là khoảng thời gian cây được trồng xong đến lúc cho trái ổn định. Thời kỳ khai thác kinh tế từ năm thứ tư trở về sau. Đây là lúc cần nhiều kinh nghiệm để xử lý cho hoa trái và những dự báo về thị trường vì liên quan đến năng suất, chất lượng và tiêu thụ sản phẩm tươi cũng như đã qua chế biến